Sạch – điều chúng tôi muốn nói ở đây không phải là chất lượng của sản phẩm mà muốn đề cập đến quy trình sản xuất, công nghệ áp dụng để đảm bảo các tác động đến môi trường được giảm thiểu trong việc sản xuất vôi. Đây cũng là điều mà các cơ sở lò nung vôi thủ công khó có thể đáp ứng, nhưng lại đang được thực hiện tại Nhà máy Sản xuất vôi hóa Hương Hải (Hoành Bồ).
Dẫn chúng tôi tham quan mô hình sản xuất của Nhà máy, anh Lê Văn Phước, Trưởng Phòng Điều hành sản xuất, Nhà máy sản xuất vôi hóa Hương Hải, cho biết: “Hiện tại chúng tôi có trên 100 lao động, trong đó có hơn 20 lao động vận hành máy móc, còn lại đa phần các thiết bị vận hành theo cơ chế tự động. Nhà máy sử dụng công nghệ của Ý, đơn vị cung cấp thiết bị cũng là công ty hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực cung cấp công nghệ, thiết bị cho các nhà máy sản xuất vôi theo hướng công nghiệp. Hiện công suất nhà máy đạt 210 tấn/ngày/lò với các sản phẩm là vôi cục, vôi bột, vôi hydrat, cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước. Tổng vốn đầu tư của nhà máy đến thời điểm này là hơn 400 tỷ đồng”.
Công nghệ dây truyền sản xuất của Nhà máy được phân thành các công đoạn chính như: Tiếp nhận, vận chuyển nguyên liệu; tồn trữ và rút nguyên liệu; định lượng và nung vôi; chứa, đóng bao và xuất vôi. Máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất như hệ thống xử lý đá vôi, lò nung vôi, trạm sàng và ướp lạnh vôi… đều được nhập mới 100%.
Các biện pháp giảm thiểu và xử lý bụi, khí thải được thực hiện một cách chặt chẽ. Cụ thể, nguồn nhiên liệu than hiện Nhà máy nhập khẩu từ Indonesia có lượng tro thấp dưới 10%, lượng bụi phát tán ra môi trường sau khi trải qua hệ thống lọc bụi hầu như không còn. Dây truyền công nghệ sản xuất của Nhà máy hiện có 2 lò nung (kiểu lò đứng 2 nhánh song song), khi vận hành nhiệt độ nung luôn được duy trì ở mức 1.1000C và không vượt quá 1.2000C, nên ở mức nhiệt độ này không phát thải khí NOx (các oxit nitơ là khí độc, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, thậm chí có thể gây tử vong trong điều kiện thích hợp).
Mặt khác, quá trình cháy nhiên liệu được thực hiện triệt để nhờ lượng gió nóng được cấp bổ sung từ vùng làm nguội, do đó không phát thải khí CO. Lượng khí SO2 sinh ra do quá trình đốt than lại được hấp thụ ngược lại vôi, do vậy lượng SO2 này được khử toàn bộ trong lò. Như vậy, lượng khí thải phát sinh khu vực lò nung chỉ còn CO2 và bụi. Lượng khí thải này tiếp tục được đưa qua lọc bụi, sau đó được thải ra ngoài không khí, đảm bảo nồng độ bụi trong khí thải luôn nhỏ hơn 25mg/m3 khí thải chuẩn.
Đối với chất thải rắn công nghiệp như xỉ than sẽ được tập trung thu gom, có mái che tránh nước mưa rửa trôi gây ảnh hưởng đến môi trường nước mặt, sau đó dùng cung cấp cho các đơn vị sản xuất gạch chịu lửa, gạch không nung. Bụi lắng từ hệ thống xử lý khí thải được nạo vét định kỳ và thuê Công ty Môi trường đô thị TP Hạ Long vận chuyển đến nơi quy định.
Ngoài ra, việc xử lý chống ồn cũng được đề ra từ khâu thiết kế, chế tạo và lựa chọn thiết bị đảm bảo hạn chế tiếng ồn, ở những bộ phận cần thiết lắp đặt giảm thanh. Tiếng ồn khu vực nhà máy chủ yếu phát sinh tại khu vực nhà nghiền vôi và máy nén khí. Do đó, 2 khu vực này đều được khống chế bằng tường bao che, thiết bị đảm bảo khống chế phát sinh tiếng ồn quá quy định…
Công tác bảo vệ cảnh quan môi trường ở dự án còn gắn liền với các giải pháp xử lý và quản lý chất thải khoa học, hợp lý như tập trung quản lý chất thải rắn, nước thải sinh hoạt trước khi thải ra môi trường, xây dựng hệ thống thoát nước mưa, định hướng dòng chảy, làm hệ thống kênh mương, hố thu cặn quanh mặt bằng sân công nghiệp…
Trò chuyện với chúng tôi, ông Đinh Khắc Say, Trưởng thôn Yên Mỹ, xã Lê Lợi (Hoành Bồ), cho biết: “Nhà máy hoạt động từ năm 2015, cách nhà dân khoảng 700-1.000m. Sau khi đi vào hoạt động ổn định, bằng trực quan, tôi thấy các tác động đến môi trường đã được Nhà máy đảm bảo, hoàn toàn có thể chấp nhận được. Không khí, cảnh quan môi trường khu vực xung quanh Nhà máy khá đảm bảo, không như tại khu vực sản xuất của các lò thủ công”.
Trước những hệ lụy liên quan đến môi trường và an toàn lao động trong việc sản xuất vôi bằng lò thủ công, thực hiện quy hoạch phát triển công nghiệp vôi đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 của Bộ Xây dựng, UBND tỉnh đã xây dựng Kế hoạch 1460/KH-UBND ngày 22/3/2016 xác định lộ trình giảm dần và đến hết năm 2018 chấm dứt hoàn toàn việc sản xuất vôi bằng lò thủ công trên địa bàn tỉnh. Bởi vậy, Nhà máy sản xuất vôi hóa Hương Hải là mô hình tốt cần nhân rộng./.