Bộ trưởng Bộ Công Thương yêu cầu chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện than khẩn trương xây dựng lộ trình thực hiện Quyết định số 500/QĐ-TTg về việc định hướng chuyển đổi nhiên liệu sang sử dụng nhiên liệu sinh khối và amoniac với các nhà máy nhiệt điện than.
Để triển khai thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP 26 cũng như lộ trình chuyển đổi năng lượng được nêu trong Quy hoạch Điện VIII, Bộ Công Thương đã tổ chức họp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, 3 Tổng công ty phát điện 1, 2, 3 cùng các chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện đốt than.
Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã lắng nghe các ý kiến từ các tập đoàn, tổng công ty, chủ đầu tư các dự án nhiệt điện đốt than về những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện chuyển đổi nhiên liệu từ đốt than sang amoniac và nhiên liệu sinh khối (hydrogen xanh).
Cụ thể, đối với các nhà máy nhiệt điện than do EVN quản lý, ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng giám đốc EVN cho biết hiện EVN đang quản lý, vận hành 15 nhà máy nhiệt điện than với 36 tổ máy có tổng công suất đặt 12.633 MW.
Trong đó có 2 tổ máy đã vận hành hơn 20 năm với công suất 600 MW; 4 tổ máy đã vận hành gần 40 năm với tổng công suất 440 MW; 4 tổ máy vận hành gần 50 năm với tổng công suất 100 MW. Đến năm 2030 có thêm 4 tổ máy vận hành hơn 20 năm với tổng công suất 1.230 MW.
Hiện EVN đã và đang tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm và có kế hoạch chuyển đổi với một số tổ máy của nhà máy như: Uông Bí mở rộng (tổ máy S7), Quảng Ninh (S1,S2) với loại nhiên liệu dự kiến sinh khối/amoniac…
Nhiều băn khoăn về giá và công nghệ
Ông Nguyễn Tài Anh cho biết khó khăn chính là công nghệ đốt trộn amoniac hiện nay trên thế giới chưa hoàn thiện do mới chỉ trong giai đoạn thử nghiệm, chưa có nhà máy nào ở Việt Nam cải tiến, thử nghiệm đồng đốt amoniac và có đánh giá về tính kinh tế, kỹ thuật và các ảnh hưởng tác động đến con người, môi trường và thiết bị.
Khả năng cung cấp nhiên liệu amoniac/sinh khối trong giai đoạn hiện nay của các đơn vị trong nước và trên thế giới còn hạn chế chưa đảm bảo nguồn nguyên liệu sinh khối, amoniac để vận hành lâu dài và ổn định…
Trong khi đó ý kiến từ các chủ đầu tư khác như TKV, Tổng công ty phát điện 1,2,3, cùng các chủ đầu tư khác đều băn khoăn về giá biomass trên thị trường cao hơn giá than, chưa có cơ chế chính sách về hỗ trợ giá chuyển đổi cho nhà máy thực hiện đồng sinh khối, amoniac để các nhà máy mở rộng thử nghiệm, tìm kiếm đối tác cung cấp nguyên liệu lâu dài và chất lượng, hay như việc chuyển đổi nhiên liệu mới có ảnh hưởng đến công nghệ hiện hữu của nhà máy?
Ở một góc độ khác, các chủ dự án nhiệt điện đốt than BOT như: Nghi Sơn 2, Vĩnh Tân 1, Duyên Hải 2 băn khoăn về các điều khoản của hợp đồng mua bán điện đã được ký kết khi chuyển đổi nhiên liệu giá thành sản xuất sẽ cao hơn giá đã thỏa thuận trong hợp đồng mua bán điện. Như vậy thời gian còn lại của hợp đồng sẽ thực hiện như thế nào, phần chi phí tăng thêm cho chuyển đổi công nghệ, chi phí nhiên liệu chuyển đổi… bên nào phải chịu?…
Ngoài ra còn các khó khăn vướng mắc khác như: Thủ tục cấp phép liên quan, thủ tục môi trường ở Việt Nam do chưa có quy định cho loại hình mới này; chi phí đầu tư cải tạo, nâng cấp lớn, giá thành sản xuất điện sẽ có xu hướng tăng và tính hiệu quả kinh tế không cao trong khi tuổi thọ các hệ thống, thiết bị đã qua nhiều năm vận hành sẽ ảnh hưởng đến thời gian thu hồi vốn của dự án…
Ông Ngô Trí Thịnh, Tổng Giám đốc Tổng công ty Điện lực TKV kiến nghị để có thể chuyển đổi thành công nhiên liệu than sang sinh khối và amoniac, Tổng công ty kiến nghị Chính phủ, Bộ Công Thương và các cơ quan sớm có lộ trình và các cơ chế, chính sách cụ thể (về quy hoạch vùng nguyên liệu, hỗ trợ tài chính, giá bán điện,…) làm cơ sở để các nhà máy nhiệt điện và các đơn vị liên quan triển khai.
Khẩn trương nghiên cứu đề xuất lộ trình thay đổi nhiên liệu
Kết luận buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đánh giá cao vai trò của nhà máy nhiệt điện than đã có nỗ lực trong việc cung cấp điện trong điều kiện thời tiết cực đoan, các nhà máy thủy điện không phát huy được. Các doanh nghiệp đã nỗ lực rất cao để góp phần bảo đảm nguồn cung năng lượng ở mức chấp nhận.
Bộ trưởng đề nghị các chủ đầu tư, chủ sở hữu của nhà máy nhiệt điện than thực hiện nghiêm Chỉ thị 29 ngày 2/11/2019 của Thủ tướng và Biểu đồ cung cấp than do Bộ Công Thương ban hành trong các năm. Đồng thời, cần xây dựng lộ trình và thể hiện quyết tâm bằng cam kết với Chính phủ Việt Nam qua Bộ Công Thương.
“Các chủ đầu tư cần chủ động tìm hiểu, đề xuất cơ chế, chính sách của các quốc gia, các tổ chức quốc tế, khu vực dựa trên các cam kết, tuyên bố của họ trên các diễn đàn, như Tuyên bố JETP… Trên cơ sở đó, Bộ Công Thương sẽ tập hợp và có kiến nghị với tổ chức quốc tế. Thực hiện báo cáo trước ngày 15/7 tới. Đồng thời nghiên cứu hợp tác và chủ động tìm kiếm các nguồn lực thay thế, các nguồn nhiên liệu thay thế như sinh khối, ammoniac”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ đạo.
Bộ trưởng giao Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo chủ trì với các đơn vị có liên quan tiếp tục nghiên cứu các cơ chế chính sách dựa vào những cam kết của các tổ chức quốc tế để đưa ra một số cơ chế chính sách ban đầu.
Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu (COP 26) diễn ra ở Vương quốc Anh, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ cùng gần 150 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050. Tháng 12/2022, Chính phủ Việt Nam và Nhóm các đối tác quốc tể (IPG), bao gồm: Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh và Bắc Ireland, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Italy, Canada, Đan Mạch, Na Uy) đã chính thức thông qua Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyền đổi năng lượng công bằng, trong đó thời gian đạt phát thải đỉnh của Việt Nam vào năm 2030 và phát thải không quá 170 triệu tấn CO2 vào năm 2030 với sự hỗ trợ mạnh mẽ của quốc tế về công nghệ và tài chính”. Ngày 15/5/2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch Điện VIII) tại Quyết định số 500/QĐ-TTg. Trong đó quy định về việc định hướng chuyển đổi nhiên liệu sang sử dụng nhiên liệu sinh khối và amoniac với các nhà máy nhiệt điện than đã vận hành 20 năm khi giá thành phù hợp và dừng các nhà máy có tuổi thọ hơn 40 năm nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu. |